Tết xưa Hà Nội trong ký ức đại gia giàu nức tiếng phố Hàng Đào
Ông Nguyễn Thái An (sinh năm 1943) là con trưởng trong một gia đình có 12 anh em. Cha ông là cụ Nguyễn Văn Lợi, một nhà buôn tơ lụa giàu có nổi tiếng ở phố cổ Hàng Đào (Hà Nội). Còn mẹ ông là bà Nguyễn Thị Hồng cũng được xem là giai nhân với vẻ đẹp “nghiêng nước, nghiêng thành” thời đó.
Trước đây, con phố Hàng Đào được mệnh danh là trung tâm buôn bán quần áo, tơ lụa sầm uất bậc nhất của kinh thành Thăng Long. Thời Pháp thuộc, phố mang tên là Rue de la Soie (phố bán lụa). Nơi đây cũng tập trung rất nhiều thương lái nước ngoài như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản… đến giao thương, buôn bán.
Bố mẹ ông Thái An thuộc thế hệ những thương lái đầu tiên kinh doanh và mở cửa tiệm vải lớn ở phố Hàng Đào. Nhờ biết tính toán và chi tiêu hợp lý nên công việc buôn bán của gia đình ông ngày càng phát đạt và thuận lợi.
Thời điểm những năm 40 của thế kỷ trước, gia đình ông đã nổi tiếng khắp Hà Nội nhờ tài kinh doanh giỏi và trở thành một trong những gia đình giàu có nức tiếng tại phố cổ.
Với truyền thống nho giáo mẫu mực, ông lớn lên và thừa hưởng trọn vẹn nếp sống thanh lịch của người Tràng An xưa. Hơn ai hết ông Thái An hiểu rõ giá trị to lớn gắn với những nét đẹp văn hóa truyền thống của người Việt, và trong đó chẳng thể nào thiếu Tết. Biết bao lần, giọng nói Hà Nội êm ru của ông vẫn khẽ rung lên khi nghe thấy khúc nhạc giao mùa du dương phát ra từ chiếc băng cassette cũ.
Ông Thái An lại nhớ Tết xưa!
“Tết là giấc mơ, mà mỗi năm chỉ được mơ một lần”
Nằm nép mình trên phố hàng Đào, căn nhà số 72 của gia đình ông Thái An sau hơn một thế kỷ tới nay vẫn giữ được ven nguyên lối kiến trúc cổ xưa. Đã bốn đời con cháu sinh sống trong không gian này, dấu ấn rêu phong không chỉ thể hiện qua đường nét, chi tiết trong từng khung cửa, cầu thang hay những bức ảnh đen trắng đã bạc màu. Đó còn là câu chuyện được ông An lưu giữ và “kể” lại qua cách giáo dục con cái với nếp sống gia giáo, truyền thống ít nhà nào có được.
Ông Thái An say sưa kể về Tết xưa của người Hà Nội
Ngược về quá khứ, “Những người sống với nỗi nhớ và yêu Hà Nội sẽ không bao giờ quên được một giai đoạn chơi Tết của mảnh đất Kinh kỳ” – ông Thái An bắt đầu câu chuyện về cái Tết của gia đình mình trong những năm tháng huy hoàng bằng giọng nói như bước qua cõi mộng.
Đó là ngày ông còn là cậu bé lên 10. Mọi ký ức về Tết qua lăng kính của đứa trẻ ngây ngô chưa bao giờ đẹp đẽ đến vậy. Không khí mùa xuân bắt đầu tràn vào Hà Nội, tràn vào 36 phố phường cổ kính bằng sự xuất hiện của những quầy bán tranh Tết trên phố Hàng Bồ từ trước đó vài ba tháng.
Không cần đợi đến tận giáp Tết, khi đào Nhật Tân bắt đầu nở rộ dưới nắng xuân ấm áp, hay có sự xuất hiện của mai vàng Sài Gòn vượt qua chặng đường vài ngàn cây số ra đất Bắc như bây giờ.
Gia đình ông Nguyễn Thái An trong bức ảnh được chụp vào mùng 2 Tết năm 1949
Trong trí nhớ của ông Thái An, con đường đi học của ông lúc bấy giờ tràn ngập những ông đồ với áo the khăn xếp ngồi nghiêm trang trên chiếc chiếu hoa trải bên vỉa hè. Những bức tranh giấy đỏ được luồn dây sắt treo trên mép tường với đủ thứ màu sắc rực rỡ. Đám trẻ con khi ấy có thể ngồi ngẩn ngơ cả ngày ngắm nhìn ông đồ thảo chữ, viết câu đối hay mân mê mấy bức tranh sáng bừng dưới nắng.
Ông An và hầu hết những đứa trẻ cùng thời với ông vì quá say đắm những tín hiệu đầu tiên của Tết nguyên đán nên khi ông đồ già xuất hiện cùng những bức tranh cũng là lúc đám trẻ ngày ấy bắt đầu nhịn ăn sáng. Mấy đồng bạc lẻ được cậu mợ (cách gọi cha mẹ lúc bấy giờ) cho đều đem dành dụm cho tới khi đủ để tự sắm cho mình một bức tranh Đông Hồ tuyệt đẹp từ Thuận Thành (thuộc Bắc Ninh bây giờ) mang sang.
“Đó là món quà tuổi thơ đặc biệt nhất của chúng tôi thời đó. Nó không chỉ là bức tranh câu đối đơn thuần mà còn là tín hiệu đầu tiên của Tết, cho chúng tôi biết rằng chúng tôi lại sắp được “chạm tay” vào giấc mơ của mình”, ông Thái An bồi hồi kể lại.
Hình ảnh ông đồ già trên phố là dấu hiệu đầu tiên để đám trẻ biết Tết đã sắp về. (Ảnh tư liệu)
Nồi bánh chưng của mợ là sợi dây gắn kết gia đình
Không khí Tết về phố phường từ rất sớm những chỉ thực sự sôi động từ ngày 23 tháng chạp. Như đã hẹn trước, vào ngày này tất cả các cửa hàng trên phố Hàng Đào sẽ đồng loạt đóng cửa sau khi cúng ông Công ông Táo để toàn tâm chuẩn bị cho Tết nguyên đán.
Vì mỗi năm chỉ có một lần và lại có ý nghĩ to lớn trong đời sống của người dân nên Tết nguyên đán luôn được các gia đình Hà thành chuẩn bị chu toàn.
Mợ ông Thái An là người phụ nữ tháo vát, đảm đang. Bà luôn tự tay mua sắm chuẩn bị Tết chứ không mượn đến vú già, con sen, người ở trong nhà. Thực phẩm cho Tết chủ yếu là các thức hàng khô, như miến dong, mộc nhĩ… được mua với số lượng đủ cho mười ngày Tết. Vài đôi gà mua thả nhốt trong chuồng, ăn đến đâu mới làm thịt đến đó.
Khác với bây giờ, thực phẩm Tết ngày đó là những món đồ rất khó tìm, thường chỉ được bày bán những ngày cận Tết. Nên những người phụ nữ luôn phải đặt mua từ rất sớm mới chọn được đúng đồ mình ưng ý để đảm bảo cho mâm cỗ ngày Tết được toàn vẹn nhất.
“Ngày đó mọi thứ còn khó khăn, quanh năm túng thiếu nên chỉ đợi đến Tết mới được ăn món ngon. Đám trẻ chúng tôi cũng vì mâm cỗ ngày Tết ấy mà ngày nào cũng bồi hồi mong mỏi đến Tết. Đâu như bây giờ, chỉ một cuộc điện thoại đã có thể được ăn bánh chưng bất cứ khi nào” – Ông Thái An khẽ cười.
Những con phố vắng bóng người qua lại trong dịp Tết của người Hà Nội (Ảnh tư liệu)
Nồi bánh chưng ngày đó với đám trẻ thơ và ngay cả với những người lớn chính là một điều kỳ diệu của Tết. Gia đình nào cũng cố gắng chuẩn bị lá dong, thịt đỗ, gạo nếp để tự tay gói những chiếc bánh vuông vắn.
Và theo thông lệ, bao giờ trẻ con trong nhà cũng được “ưu tiên” một chiếc bánh mụ – chiếc bánh chưng nhỏ xíu, có dây buộc làm tay cầm. Đấy là phần thưởng để dành cho sự háo hức của lũ trẻ, sau cả một đêm thức cùng cậu mợ canh nồi bánh chưng nghi ngút khói.
Ngày mồng một Tết, trong lúc tụi trẻ con xúng xính quần áo mới, cậu mợ ông Thái An tất bật chuẩn bị cho mâm cúng đầu năm. Nhà ông có bảy người làm, mỗi người một việc. U già đồ xôi, con sen dọn dẹp, quét dọn ban thờ từ hôm trong năm. Việc bày lễ lên ban thờ, trực tiếp cậu mợ ông Thái An luôn tự tay làm. Khi ấy, ông mới chỉ là cậu bé lên 10, nhưng đã phần nào cảm nhận được sự thiêng liêng trong cái tất bật của cậu mợ mình.
Nồi bánh chưng được coi là “linh hồn” của Tết Việt. (Ảnh tư liệu)
Trong giai đoạn huy hoàng một thời “chơi” Tết của mảnh đất Kinh kỳ, người Hà thành thực sự coi Tết là một phần thưởng xứng đáng sau những tháng ngày lao động vất vả. Họ ung dung chơi Tết cả tháng trời mà chẳng mảy may tới những vướng bận trong công việc và cuộc sống thường trực.
Bắt đầu từ ngày mồng một Tết đầu năm, hoạt động du xuân diễn ra rộn ràng khắp 36 phố phường. Phụ nữ dù nghèo khổ hay giàu có cũng sẽ bận lên mình một bộ áo dài mới thướt tha.
“Trong trí nhớ tôi, Hà Nội khi đó thật đẹp bởi những người chị, người mẹ duyên dáng trong trang phục truyền thống – Một loại trang phục mà mãi cho tới giờ tôi vẫn luôn yêu.”, ông Thái An bồi hồi.
Trong gần 30 ngày nghỉ Tết, người Hà thành thường ưu tiên nhất cho nếp sống sinh hoạt gia đình, lui tới thăm hỏi người thân, bạn bè, cùng nhau ngồi hàn huyên những chuyện đã qua trong năm cũ và hứa hẹn về một năm mới hạnh phúc.
Phương tiện di chuyển ngày ấy là những chiếc xe rong ruổi khắp phố, thậm chí có người phải đi bộ rất xa nhưng khoảng cách ấy chẳng thể ngăn được người ta đến với nhau trong những ngày nghỉ này.
Căn nhà của ông Thái An rộng khoảng 200m2, được xây dựng theo lối kiến trúc Pháp với khoảng hơn 10 phòng.
Nhà ông bà ngoại ông Thái An ở làng Quỳnh Lôi. Hà Nội xưa chỉ bó hẹp trong 36 phố phường, ra đến mạn Bạch Mai, Quỳnh Lôi, Khâm Thiên… đã là ngoại thành. Cho nên, một cuốc xe kéo đi vòng hết 36 phố, cũng chỉ là một quãng đường rất ngắn. Mỗi lần đi, một xe mợ ông trả hết 5-10 đồng bạc Đông Dương.
Ông Thái An vẫn còn nhớ như in những ngày đầu năm, ông cùng đám trẻ trong xóm tay cầm những bánh pháo nhỏ được mùa trước Tết đã mấy tháng chạy quanh khu phố Hàng Đào thi thoảng lại lấy hộp quẹt đốt một tép pháo rồi thích thú nghe âm thanh pháo nổ như một điều gì đó thật kỳ diệu.
Đầu năm ngày đó còn có một bà cụ sáng sớm gánh nước đến, tự động đổ đầy các khạp nước của các gia đình. Bà cụ không đòi giá, chủ nhà có thể tự trả theo thành ý. Không ai kỳ kèo mặc cả mà đều vui vẻ tiếp nhận, như một thông điệp cho một năm mới tốt lành, tài lộc vào nhà nhiều như nước.
Trong căn phòng nhỏ của mình, ông Thái An vẫn lặng yên ngắm nhìn bức ảnh gia đình, văng vẳng bên tai khúc nhạc giao mùa. Cái rạo rực của một mùa Tết Kinh kỳ phồn thịnh dường như vẫn còn đó, vẹn nguyên trong ký ức của một người Hà Nội gốc, một người yêu Hà Nội và một người yêu Tết cổ truyền.
Thanh Thúy